Monday 27 June 2011

Gấu trúc học võ, Trung Hoa sóng gió


Thứ sáu 24 Tháng Sáu 2011
Gấu trúc học võ, Trung Hoa sóng gió

Tuấn Thảo

Sau ba tuần lễ công chiếu, tập nhì của bộ phim Kung Fu Panda (Gấu trúc học võ) đã thu về hơn 300 triệu đôla. Trong đó có gần một nửa số doanh thu đến từ thị trường Mỹ. Đáng ngạc nhiên hơn cả là bộ phim rất ăn khách tại Hoa Lục. Sự thành công này khiến cho nhiều người ở Trung Quốc không mấy hài lòng.

Tại Trung Quốc, bộ phim Gấu trúc học võ tập nhì đã phá kỷ lục với 18 triệu rưỡi đôla (12,8 triệu euros) chỉ riêng trong tuần lễ đầu tiên ra mắt khán giả ở rạp. Như vậy, tập hai bội thu hơn cả tập một và đồng thời vượt qua mặt Hải tặc vùng Caribê (Pirates of the Caribbean), được xem như là bộ phim Mỹ đầu tiên vượt qua ngưỡng doanh thu đầy biểu tượng 100 triệu yuan tương đương với 15 triệu đôla (10,6 triệu euros), sau 7 ngày chiếu ở rạp.

Về nội dung, chuyện phim của tập nhì nối tiếp phần một. Gấu trúc sống ở vùng Thung lũng Bình yên cùng với 5 huynh đệ đồng môn (Hổ, Hầu, Hạc, Xà và Bọ ngựa). Nhưng thế giới an lành ấy lại bị đe dọa bởi sự xuất hiện của Thái tử Châu Tước (chim công). Nhân vật này trở về Trung Hoa với một loại vũ khí bí mật đáng gờm, dùng pháo hoa để chế biến súng pháo thần công (đại bác), dùng hỏa lực để tiêu diệt các môn võ cổ truyền và thỏa mãn tham vọng làm bá chủ giang sơn.

Về hình thức, Gấu trúc học võ tập nhì ngoạn mục hơn nhiều tập một chủ yếu nhờ vào công nghệ quay phim ba chiều (3D). Kỹ xảo điện toán tinh vi giúp cho các màn bắn pháo hoa trở nên vô cùng rõ sắc và đẹp mắt. Nhưng đổi lại, tập hai không gây nhiều ngạc nhiên bằng tập trước : Các màn pha trò tiếu lâm tiếp tục khai thác sự chênh lệch trong tình huống, tuy vẫn hài hước vui nhộn nhưng không còn bất ngờ như ban đầu.

Vào lúc mà bộ phim tiếp tục lôi cuốn đông đảo khán giả nhỏ tuổi vào các rạp hát, thì tranh luận lại nảy sinh về điều được gọi là ‘‘văn hóa ngoại xâm’’ trên các diễn đàn trực tuyến và nhất là trên các mặt báo ở Trung Quốc. Tại các nước Âu Mỹ, giới trẻ thích truy cập các trang Facebook và Twitter, thì một cách tương tự thanh niên Trung Quốc thích vào mạng xã hội có tên là Xiaonei (renren.com).

Được thành lập cách đây vài năm, mạng Xiaonei đã nhân lên gấp ba số thành viên từ 70 triệu vào năm 2008 lên đến hơn 200 triệu vào năm nay. Trên mạng Xiaonei, có một trang tên là Bạn mê xem phim, nhưng lại ghét Gấu trúc học võ. Đó là nơi mà các thành viên trao đổi ý kiến với nhau và đa số đều có vẻ không hài lòng cho lắm trước hình ảnh của con gấu trúc theo cách vẽ của các nhà làm phim Mỹ.

Đối với người Trung Quốc, con gấu trúc được xem như là một biểu tượng quốc gia. Chỉ cần nhìn vào các mặt hàng bày bán trên thị trường, ta sẽ thấy có khá nhiều thương hiệu sản phẩm tạc hình con gấu trúc. Còn trong mắt của các nhà làm phim hoạt hình thuộc hãng Dreamworks, thì nhân vật gấu trúc lại ham ăn lười biếng, cái bụng phệ lúc nào cũng kêu to như thể chưa xong phần tiêu hóa. Rốt cuộc, con gấu trúc cũng trở thành anh hùng, nhưng lại là một thứ anh hùng bất đắc dĩ. Bộ phim vui nhộn vì biết khai thác những tình huống ngược đời. Ở cùng một nhân vật, người Âu Mỹ chủ yếu thấy nét suy ngẫm khôi hài, người Trung Quốc lại thấy sự châm biếm mỉa mai.

Có lẽ cũng vì thế mà khi Gấu trúc học võ được công chiếu ở Trung Quốc, nghệ sĩ Zhao Bandi đã kêu gọi tẩy chay bộ phim vì theo ông, các nhà làm phim Mỹ không hiểu gì mà lại đi bóp méo văn hóa Trung Hoa. Còn giáo sư Chen Wu thuộc trường đại học Bắc Kinh thì chỉ trích thâm ý của các nhà sản xuất phim Mỹ, khai thác hình tượng con gấu trúc để trục lợi kiếm lời, nấp mình đằng sau công nghiệp giải trí để truyền đạt ý tưởng của mình đến nhiều đối tượng cùng một lúc. Vị giáo sư này gọi đó là một cuộc ‘‘xâm lăng của văn hóa ngoại bang’’ và giải thích rằng một bộ phim với toàn là những nhân vật Mỹ chưa chắc gì đã thuyết phục được khán giả Trung Quốc, nhưng một bộ phim Mỹ hàm chứa nhiều nét văn hóa Trung Hoa sẽ dễ dàng đánh trúng đối tượng là người Trung Quốc hơn.

Cuộc tranh luận xung quanh bộ phim Gấu trúc học võ thật ra là một câu chuyện dài nhiều tập. Nó bắt nguồn ngay từ lúc ra mắt tập đầu tiên tức là vào năm 2008. Vào thời đó, đạo diễn Steven Spielberg, một trong những người sáng lập hãng phim Dreamworks, đã tẩy chay Thế Vận Hội Bắc Kinh. Lúc đầu, ông nhận lời làm cố vấn nghệ thuật trong cách dàn dựng lễ hội Olympic, nhưng sau đó ông rút lui để phản đối việc chính quyền Bắc Kinh hậu thuẫn Sudan, mặc dù thảm họa nhân đạo đang diễn ra ở vùng Darfour của nước này. Chính cũng vì vậy, mà tập đầu của Gấu trúc học võ đã gây ra nhiều phản ứng mạnh mẽ, khi phim được công chiếu ở Trung Quốc.

Để tránh cho tranh luận tái diễn, hãng phim Dreamworks lần này đã tỏ ra khôn khéo hơn trước rất nhiều, đặc biệt là ở ba điểm. Thứ nhất, các nhà sản xuất chọn một nữ đạo diễn người Mỹ gốc Hoa, cô Jennifer Yuh Nelson. Thứ nhì, đoàn làm phim đã nhiều lần đến thăm các hiệp hội bảo vệ loài gấu trúc ở Trung Quốc. Thứ ba, ban đặc trách khâu quảng cáo đã thực hiện công việc tiếp thị ngay từ giai đọan tiền kỳ của bộ phim, để lọt thông tin ra bên ngoài để bắt mạch thị trường, tránh vận dụng những hình tượng như long phụng vào các nhân vật phản diện (rồng là linh vật đối với người Trung Hoa, nhưng lại là hung thần đối với văn hóa Âu Mỹ). Nói tóm lại, ngay từ đầu, đoàn làm phim đã tìm cách giới hạn càng nhiều rủi ro chừng nào, thì càng tốt chừng nấy.

Trên các diễn đàn thông tin, không phải chỉ có những ý kiến bất bình với hai tập phim Gấu trúc học võ. Về điểm này, thì các ý kiến đăng tải trên mạng cho thấy là dư luận Trung Quốc bị chia thành hai phe. Một bên thì phản đối, còn một bên thì cho rằng thay vì đi chỉ trích người khác, tại sao các nhà làm phim Trung Quốc không tự nhìn lại mình. Đối với nhiều bạn trẻ ở Trung Quốc, thì nền điện ảnh Hoa Lục còn vướng phải lưỡi kéo kiểm duyệt. Trước một sự kiểm sóat như vậy, không phải là không còn sáng tạo, nhưng các tác phẩm mang tính chất phê phán chỉ có thể thành hình ở ngoài luồng. Bằng chứng là nhiều phim Trung Quốc thành công ở nước ngoài, một là quay lén, hai là tìm cách luồn lách để đi vòng sự kiểm duyệt.

Theo lời ông Wu Jiang, Giám đốc nhà hát Kinh kịch Quốc gia, phần lớn bộ phim Gấu trúc học võ đều dựa trên văn hóa Trung Hoa, vậy thì tại sao người Trung Quốc lại không làm được một bộ phim như vậy? Báo Courier International thì trích dẫn đạo diễn Lu Chuan cho rằng thay vì phí lời chỉ trích, thì nên để dành công sức để xây dựng ngành làm phim nội địa xứng đáng hơn với hình ảnh của một cường quốc điện ảnh. Theo đạo điễn này, nếu như các tác giả Trung Quốc phải được duyệt qua trước, luôn tục làm theo chỉ đạo, thì e rằng chẳng còn ai thật sự còn có hứng thú để sáng tạo. Trong bối cảnh này, đạo diễn trẻ tuổi Lu Chuan cảm thấy vui mừng khi mà Trung Quốc đầu tư vào việc thành lập một hãng phim hoạt hình có tầm cỡ, đặt tại thành phố cảng Thiên Tân, nằm cách thủ đô Bắc Kinh khoảng một tiếng đồng hồ đi xe hơi.

Còn theo báo Le Monde, Gấu trúc học võ tập hai trước hết là một câu chuyện ngụ ngôn thú vị, dành cho mọi lứa tuổi. Bộ phim có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và một trong những cách đọc là cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa hai siêu cường Hoa Kỳ Trung Quốc. Anh hùng thắng kẻ tà vì ở một bên Gấu trúc tuy dùng võ nhưng thế mạnh lại xuất phát từ tâm, trong khi chim công chỉ đơn thuần dùng hỏa lực. Không biết ẩn dụ này làm cho người Trung Quốc nhột ở chỗ nào. Từ năm 2008, Bắc Kinh tập trung phát triển việc sử dụng quyền lực mềm (soft power) để tô điểm hình ảnh, nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế.

Khái niệm này, kể từ một thập niên qua, được định nghĩa như khả năng thu hút và thuyết phục các quốc gia khác mà không cần sử dụng đến sức mạnh (hard power). Quyền lực mềm được thể hiện qua hàng loạt các yếu tố như hình ảnh, uy tín, năng lực giao tiếp, mức độ cởi mở của xã hội, tính gương mẫu của chính quyền và sức quyến rũ của nền văn hóa, vân vân… Nhưng rõ ràng là trong lãnh vực sử dụng quyền lực mềm, người Mỹ đã ghi được một bàn thắng với sự thành công không thể chối cãi của bộ phim Kung Fu Panda ở Hoa Lục. Tuy nhiên, bộ phim Gấu trúc học võ tập nhì sẽ hay hơn thế nữa, nếu như các nhà làm phim Mỹ đã không tự kiểm duyệt mình để tránh đụng chạm. Rốt cuộc thì Panda của Mỹ lại sợ bị gõ đầu bằng gậy trúc. Còn gấu trúc Trung hoa thì lại bị gậy ông đập lưng ông.

source

RFI Vietnamese

Friday 10 June 2011

Tắm biển ở “Hòn ngọc Địa Trung Hải” (4)


Cập nhật lúc: 5/26/2011 3:35:35 PM
Tắm biển ở “Hòn ngọc Địa Trung Hải” (4)

Bút ký du lịch của Nguyễn Hồng Anh

“Cô Dâu Địa Trung Hải”? Bãi biển trước thành phố Alexandria ngày nay không còn là nơi lý tưởng để du khách đến tắm

Nói đến Alexandria là nói về một thành phố biển, được mệnh danh là The Pearl of the Mediterranean (Hòn ngọc Địa Trung Hải) hay thơ mộng hơn, The Bride of the Mediterranean (Cô dâu Địa Trung Hải) với một bờ biển dài cả 30 cây số.

Đất lành chim đậu, dân tứ phương tới đây buôn bán sinh sống. Người ta nói trong 300 năm từ thời của Alxander the Great vĩ đại đến thời của nữ hoàng Cleopatra VII sắc nước hương trời, dân số của thành phố biển này chừng nửa triệu tới một triệu người, được coi là đông nhất theo sự hiểu biết của người Tây phương thời đó. Ngày nay Alexandria là thành phố lớn thứ hai của Ai Cập với dân số trên 4 triệu người. Liệu còn đẹp như thuở xưa? Mời bạn cùng đi xem với chúng tôi.

Nữ hoàng Cleopatra từng tắm nơi đây?

Sau khi xem pháo đài Qaitbay, người dẫn du lịch đưa chúng tôi đến bãi biển của thành phố là mục tiêu thứ hai của chuyến đi. Tôi nghĩ thành phố có thể còn một số bãi biển khác (vì dài cả 30 cây số) nhưng Ekramy đưa chúng tôi trở ngược lại đại lộ dọc bờ biển dẫn ra pháo đài Qaitbay.

Nói về địa hình, bãi biển Alexandria rất lý tưởng. Các cao ốc chen chúc nằm dọc bờ biển tạo thành một hình vòng cung thật lớn, đúng hơn là vòng tròn với lối ra đại dương là một cửa biển lớn. Alexander Đại Đế quả có mắt thẩm mỹ và biết nhìn xa khi chọn nơi đây để thành lập một thành phố xứng đáng với tên tuổi của ông.

Quanh vòng đai biển là những bến cho tàu bè nhỏ đậu, chính giữa là bãi cát rộng và dài, nơi dân thành phố chỉ bước qua khỏi đường nhựa là tới bãi tắm, như Bondi ở Sydney, Nha Trang ở Việt Nam.

Bãi biển nằm sát thành phố, cũng vì vậy nên không sạch?

Tôi từng nghe người ta ca tụng cảnh hoàng hôn trên đại lộ dọc biển Alexandria nhưng khi ra bãi cát để xuống biển tắm, chúng tôi có cảm tưởng mình đã đi lộn chỗ (một người Hy Lạp và một người Do Thái tôi có dịp tiếp xúc nói khi họ đi Ai cập, họ không đến Cairo hay Alexandria mà đi nghỉ mát và tắm biển ở Biển Đỏ hay núi Sinai, những nơi mà họ nói bãi biển tuyệt đẹp).

Tôi đã khốn đốn khi dùng phòng vệ sinh và phòng tắm công cộng (có trả 1 Pound cho người gác) để thay đồ bởi người ta phóng uế bừa bãi, nhìn buồn nôn. Tôi ra ngoài bãi cát định quấn khăn thay đồ giữa trời nhưng ngại phong tục ở đây không cho phép nên đành trở vào chịu trận, trả cái giá để được tắm biển Alexandria.

Ekramy thuê 2 cái dù và 4 cái ghế cho nhóm chúng tôi. Bãi biển đầy người hóng biển và tắm. Các bà các cô mặc nguyên quần áo ngâm mình dưới nước, có bà trùm khăn đầu. Chỉ thấy các trẻ em trai và một vài ông để thân mình trần. Một vài thanh niên còn mặc cả áo thun. Nhà tôi là người duy nhất mặc đồ tắm mono-kini. Chúng tôi cảm thấy có sự bất ổn về cách ăn mặc của mình và không dám xuống biển vì nhìn nước đục ngầu, bãi cát ngập rác rến, giấy vụn bay tứ tung. Sau mấy chục năm được sống ở xứ sạch sẽ như Úc, chúng tôi cứ đứng nhìn, không có can đảm xuống nước.

Thấy vậy, Ekramy bảo nhà tôi cứ xuống tắm vì mọi người dân ở thành phố Alexandria đều tắm ở đây và Alexandria không phải là Paris hay Australia. Ông tài xế thấy bộ điệu sợ dơ của chúng tôi bèn hỏi Ekramy chúng tôi từ đâu đến.

Cuối cùng, tôi nói với nhà tôi dầu nước trông không sạch nhưng nước biển có chất muối nên không đáng ngại, cứ xuống nước để được một lần tắm ở thành phố nổi tiếng trong lịch sử, nơi có thể đã là chỗ hẹn hò và tắm biển của cặp tình nhân Cleopatra – Mark Antony!

Nước bẩn nhưng ấm, đùa một lát với sóng biển làm chúng tôi cảm thấy dần dần thích thú, nhưng vì đi trễ nên chỉ được tắm một tiếng bởi Ekramy nói chúng tôi còn đi ăn trưa và làm một vòng thành phố trước khi trở về Cairo.

Rời bãi biển, Ekramy chạy theo đưa cho chúng tôi mỗi người 1 Pound để trả tiền sử dụng phòng tắm công cộng hồi nãy. Một bầy con nít thấy vậy bèn ngửa tay xin tiền, chúng tôi lắc đầu và thế là một cậu bé chửi thề quẳng một nắm cát vào người chúng tôi. Nó nén rất chính xác. Đã ớn phòng thay đồ nay lại dính cát, chúng tôi bực mình vì sự mất dạy của chúng đối với du khách ngoại quốc.

Rửa ráy và thay đồ xong, tôi ra bên ngoài đợi. Một đám đàn ông trung niên nhìn tôi chỉ chỏ nhưng tôi chẳng hiểu họ muốn gì. Nhà tôi đi ra, cho biết các bà mẹ đem con cái vào phòng tắm rửa trong khi họ để nguyên quần áo ướt không thay. Bầy trẻ tròn xoe mắt nhìn vợ tôi như người từ hành tinh nào đến.

Nguời tắm biển ở đây mặc y phục kín người (chừa cổ và đầu) khi tắm trừ... nữ du khách, bé trai và đàn ông.

Coi chừng cách ăn mặc khi tắm biển

Ra xe, tôi giựt mình bèn hỏi Ekramy thì mới biết rằng ở đây không được phép mặc bi-kini, nhưng mặc đồ như nhà tôi thì được. May là nhà tôi mặc đồ tắm loại khá kín đáo, ống dài như quần sọt. Hú hồn, chúng tôi hoàn toàn không để ý gì đến quy tắc ăn mặc ở xứ Hồi giáo. Nhớ lại đã có chuyện những người người Tây phương qua các nước Ả Rập bị bắt, bị giam giữ vì phạm thuần phong mỹ tục của họ.

Bây giờ nghĩ lại một bản tin trên nhật báo Herald Sun số ra ngày 16.9.2010 lại càng giật mình hơn nữa.

Bản tin của ký giả Padraic Murphy có tít “VCAT ruling backs Muslim dress code. Cover up for pool event” được tạm dịch “Phán quyết của VCAT ủng hộ luật lệ ăn mặc của Hồi giáo. Hãy che kín người khi tới hồ bơi”.

Theo ký giả Murphy thì các gia đình khi tới tắm ở hồ bơi công cộng Dandenong Oasis ở miền đông Melbourne trong dịp một lễ hội phải che thân thể để khỏi xúc phạm những người Hồi giáo nhân dịp lễ Ramadan vào năm tới.

Tòa án hành chánh VCAT chấp thuận việc cấm đoán những lối ăn mặc bị coi là hở hang và nhạy cảm với người Hồi giáo nhưng chỉ áp dụng tại hồ bơi này trong vòng 2 tiếng đồng hồ từ 6.15pm ngày 21.8.2011. Những người tham dự từ 10 tuổi trở lên phải bảo đảm cơ thể của họ được phủ kín từ ngực tới đầu gối và cả thân người. Hội đồng thành phố Greater Dandenong nói việc cấm đoán này giúp người Hồi giáo cảm thấy họ là một thành phần của cộng đồng.

Bản tin này đã gây ra một vài tranh luận trong đó có những người cho rằng đây là nước Úc, những sắc dân khác tới đây sống cần hội nhập, theo tập tục của người Úc. Có lẽ cuộc tranh luận sẽ nổ lớn vào năm tới khi việc cấm đoán có hiệu lực.

Bây giờ tôi mới hiểu tại sao ở bãi biển Alexandria chẳng có một phụ nữ nào để hở vai khi tắm biển ngoại trừ vợ tôi vì chúng tôi không biết cái luật lệ đó của người Hồi giáo. Nhưng tôi đồng ý với câu nói của ông bà mình “nhập gia tùy tục” hay ngạn ngữ của Tây phương “When in Rome do as the Roman do”.

Hai phụ nữ đi dạo ven biển

Ngày hôm qua, Ekramy đã đưa chúng tôi đi ăn kiểu buffet ở vùng gần kim tự tháp Giza, hôm nay anh nói sẽ đưa chúng tôi đi ăn cá. Nghe cá là thích rồi. Tiệm ăn nằm dãy phố đối diện với với bãi biển. Nhà hàng có hai tầng. Chúng tôi lên tầng lầu, tuy đã xế trưa nhưng khách ngồi đầy các bàn, có lẽ phần lớn là người địa phương.

Tôi bảo Ekramy gọi thức ăn cho bốn người và tôi sẽ trả hết. Entrée là những đĩa xốt cà chua, ớt tây, cà rốt, cà dái dê và một vài thứ mà tôi chẳng biết là gì, được chấm bằng loại bánh mì của người Ai Cập. Ăn cảm thấy là lạ, nhưng được.

Main course là những đĩa gồm hai con cá chiên trông giống cá hồng bằng bàn tay, một con tôm nhỏ và một nắm cơm. Tôi thấy ông tài xế và ông hướng dẫn ăn một cách ngon lành nhưng do cá chiên để nguội nên tôi ngửi được mùi tanh.

Thấy hai người Ai Cập uống coca cola, tôi yêu cầu Ekramy gọi cho một chai bia nghĩ rằng phải có bia mới đẩy mấy con cá này vào bụng dù lúc này cũng đã thấy đói, nhưng Ekramy bảo ở đây không được phép bán. Anh giải thích đây là xứ Hồi giáo nên có đến 95% nhà hàng không bán bia rượu, nếu muốn anh gọi cho loại nước có mùi vị như bia nhưng không có chất cồn. Ekramy nói anh là người Hồi giáo, suốt đời không bao giờ sờ chai bia, chẳng uống một giọt rượu nhưng ông bạn tài xế là người Thiên chúa giáo (đạo Coptic) nên thỉnh thoảng cũng có uống. Anh bảo lát nữa ra bên ngoài anh sẽ tìm chỗ mua bia cho tôi nhưng tôi nói không cần thiết.

Bữa ăn cho 4 người giá 170 Pounds tức khoảng 34 Úc kim.

Hồ nước mặt sau thư viện đối bờ biển

Chuẩn bị trở về Cairo, tôi yêu cầu xe chạy một vài vòng trong thành phố Alexandria để ngắm phố xá, chợ búa ven đường. Đến một đoạn nào đó, xe dừng lại. Tôi hỏi đây là đâu, Ekramy chỉ vào một tòa nhà bên kia đường, nói đấy là Thư viện Alexandria. Thư viện một mặt (cổng vào) đối diện với cổng Phân khoa Thương mại của trường Đại học Alexandria, mặt kia là bờ biển với hàng dừa cao trồng quanh bờ hồ.

Kiến trúc của Thư viện Alexandria rất tân kỳ, mặt sau (mà trông như mặt tiền) là mái nhà xuôi chảy xuống hồ nước lớn lót gạch xanh làm mặt nước như gợn sóng dưới bầu trời mùa hè của biển Địa Trung Hải nằm ngay trước mặt.

Kiến trúc mặt sau thư viện với mái nhà xuôi ra biển Địa Trung Hải

Chúng tôi đến thăm thư viện đúng vào dịp đang có cuộc triển lãm quốc tế với sự tham dự của 16 nghệ sĩ điêu khắc từ Ý, Hy Lạp, Cyprus, Cộng hòa Tiệp và của Ai Cập mà những tác phẩm của họ được trưng bày trong sân thư viện, được gọi là một hội nghị chuyên đề về Điêu khắc bằng Vật liệu Tự nhiên qua phương pháp mang tính sáng tạo mới ba chiều bằng thủy tinh, ánh sáng và màu sắc (Alexandria International Symposium for Sculpture in Natural Material Three-dimensional Glass, xem thêm hình ảnh ở trang 150). Còn tiếp

(TVTS – 1281)

source
TiVi Tuan San