Tuesday 22 December 2009

Đêm đông ấm cho trẻ không nhà nhân mùa Giáng Sinh


- Một triển lãm tổng hợp tranh, ảnh đã được tổ chức tại nhà thờ Ba Chuông, TP.HCM nhân mùa Giáng sinh để bán gây quỹ từ thiện giúp trẻ em nghèo ăn Tết.

Đêm đông 1 - họa sĩ Lê Hiếu

Triển lãm gồm 149 tác phẩm của 50 họa sĩ, nhà điêu khắc và 9 nhiếp ảnh gia có chủ đề Đêm đông không nhà. Một nửa doanh thu từ việc bán tác phẩm sẽ được dùng làm quỹ từ thiện lì xì cho trẻ em nghèo, cơ nhỡ vào đêm giao thừa Tết Canh Dần 2010.

Linh mục Vũ Đức Trung, người điều hành Trung tâm Mục vụ Đa Minh - Ba Chuông cho biết các nghệ sĩ tham gia đã vui vẻ điều chỉnh giá nhằm giúp việc bán tranh, ảnh được thuận lợi hơn và hiện đã có nhiều nhà sưu tập tranh ảnh và mạnh thường quân đặt mua.

2.jpg
Các tác phẩm Tuổi thơ, Sau cơn bão và Hồn nhiên của nhiếp ảnh gia Trần Thế Phong

Năm bức ảnh của nhiếp ảnh gia Hoàng Quốc Tuấn, người vừa được phong tước hiệu M.FIAP - nghệ sĩ bậc thầy của Liên đoàn nhiếp ảnh nghệ thuật quốc tế, đã bán hết ngay trong ngày đầu tiên. Ba tác phẩm của nhiếp ảnh gia chuyên chụp ảnh trẻ em, Trần Thế Phong, cũng đã được mua.

Mô tả ảnh. Mô tả ảnh.
Thập giá tôi - Nguyễn Anh Khoa, Đêm đông - Minh Hưng
Đợi xuân - Nguyễn Chí Tình
Mô tả ảnh. Mô tả ảnh.
Jesus - Thanh Phương, Đêm đông 2 - Lê Hiếu

Nhiếp ảnh gia xuất thân từ trẻ đường phố Trần Thế Phong cho biết: "Tôi đã tham gia nhiều triển lãm ảnh nhưng đây là lần đầu tiên tôi được đồng nghiệp mời đến với một triển lãm tổng hợp các loại hình và giảm giá tác phẩm để làm từ thiện. Hy vọng tác phẩm của tôi có thể góp được một chút lửa để trẻ em nghèo được ấm trong những ngày Tết".

Triển lãm Đêm đông không nhà kéo dài đến hết ngày 28/12/2009 tại Trung tâm Mục vụ Đa Minh - Ba Chuông, 190 Lê Văn Sĩ, TP.HCM.

Mô tả ảnh. Mô tả ảnh.
Hoài cổ - Tạ Văn Mãnh, Hội lân - Phó Bá Cường
Hương vị ngày xuân - Tạ Văn Mãnh
  • Lê Tám

  • source
  • Đêm đông ấm cho trẻ không nhà nhân mùa Giáng Sinh

    Cập nhật lúc 12:10, Thứ Tư, 23/12/2009 (GMT+7)
  • http://www.vietnamnet.vn/vanhoa/200912/Dem-dong-am-cho-tre-khong-nha-nhan-mua-Giang-Sinh-885785/

Monday 21 December 2009

Nhà người Vân Kiều


Ngày 20.12.2009 Giờ 08:14


Kiến trúc & Đời sống - Người Vân Kiều thường sống thành từng bản nhỏ chừng mươi nóc nhà. Nhà của người Vân Kiều là nhà sàn làm từ nguyên liệu dễ kiếm như gỗ, tranh, tre, nứa, lá cọ… Gần đây có một số căn lợp bằng mái tôn nhưng vẫn dùng vách tre, lá…

Ai đó đã nhận xét rằng, những ngôi nhà của người Vân Kiều luôn mang dáng vẻ tạm bợ, bạc màu theo thời gian. Họ Sống đơn giản, ở đơn giản, tiện nghi tối thiểu… Nhưng, đó có phải là điều mà nhiều người đang sống trong những căn nhà hiện đại đang thèm thuồng đó sao?

Trần Việt Đức thực hiện

Những căn nhà bạc màu. Không cần máy móc, công nghệ.
Niềm vui không lệ thuộc vào vật chất Khung cảnh sống luôn thanh bình.
Nơi ở tạm bợ nhưng đầm ấm Lao động giúp người ta sống lâu hơn.
source
http://www.sgtt.com.vn/Detail35.aspx?ColumnId=35&newsid=60700&fld=HTMG/2009/1214/60700

Saturday 5 December 2009

Tản mạn mây tre


Tản mạn mây tre
Cập nhật lúc 2:47:06 AM - 03/11/2009

237h1.jpg


Ngõ tre về xóm


Bài và ảnh: Trần Công Nhung

Đã là người Việt Nam mấy ai mà không nghe nói đến mây tre. Đồ dùng đong đựng trong nhà hầu như toàn bằng tre mây: Từ cái rế nồi, đôi đũa ăn, khay trầu, thúng mẹt, nong nia, giường chõng… cho đến chuồng trâu chuồng bò, nhà cửa, đều bằng tre. Nước Việt ba miền đều có tre, tre trong mọi ngóc ngách thực dụng hàng ngày của dân quê. Tre quanh nhà, tre bao bọc thôn xóm, tre dọc đường cái qua làng.

Vẻ đẹp của Đa Đề là vẻ đẹp nam nhi mạnh mẽ, oai phong chững chạc, Tre đẹp mềm mại lả lướt, thanh thoát hơn. Đa Đề ở nơi đình chùa miếu mạo, Tre gần gũi người dân hơn. ‘Ăn măng luộc, ngủ giường tre’.

Tre cũng phân ra đực cái, tre đực đặc ruột, cứng, khó mối mọt, lâu hư mục, dùng làm giàn bầu bí, chuồng trại, bắc cầu qua sông lạch….. Tre cái rỗng ruột, mỏng da lóng dài, để đan lát hay làm lạt buộc đồ. Thôn quê mà thiếu tre người dân sẽ lúng túng trong nhiều công việc hàng ngày. Thời xa xưa, trẻ nhỏ làng quê học vần bằng những chữ cái viết trên miếng tre, hoặc mo cau. Bút cũng bằng tre, mực là nước hột mồng tơi tím. Ở vùng Trà Cổ (Móng Cái), thuyền đánh cá còn cặp nhiều tre hai bên mạn, phòng khi gió bão. Tre không có gì gọi là thừa thãi, ngay cả cành nhánh, cũng làm chuôm cho cá đìa, cá ao, hoặc phơi khô đun bếp, tăm tre nhiều người vẫn thích hơn tăm gỗ vì không bị gãy trong chân răng khi xỉa.

Tre tuy không mang ý nghĩa quân tử như Trúc, nhưng đa dụng hơn, nhờ thể chất cứng bền. Dân làng quê thời xưa còn đi guốc tre, na ná guốc gỗ Nhật Bản.


237h3.jpg



Tượng gốc tre


Ngày nay gốc tre là vật liệu cho nghệ sĩ điêu khác. Nhiều tác phẩm điêu khắc trên gốc tre rất độc đáo, hấp dẫn khách phương Tây. Những chân dung bằng gốc tre mang nét cổ kính và cao đạo, không trơn tru bình dị như tượng gỗ thông thường. Trường thi ngày xưa dùng bảng cót (tre đan), để viết tên những người bị rớt. Về sau, dù danh sách đánh máy nhưng danh từ “bảng cót” vẫn dùng.

Tre cũng có nhiều loại khác nhau: Tre vàng, tre cán giáo (thân nhỏ bằng cổ tay, nhiều ở miệt Biên Hòa) tre xanh. Họ hàng với Tre còn có Lồ ô, Bương, Giang, Trúc, Hóp…Sặc, lớn nhỏ khác nhau không rõ do lẽ gì, mỗi giống sống theo từng vùng riêng. Tre dưới đồng bằng, Lồ ô trên rừng. Người ta trồng tre, trúc, không ai trồng lồ ô. Một loại cỏ thân bằng cây tăm, cao khoảng 20 phân rất giống cây trúc thu nhỏ, giới chơi non bộ gọi là “Thảo Trúc”. Non bộ và tiểu cảnh biết khai thác giống Thảo Trúc này, sẽ làm cho tác phẩm sống động, duyên dáng và thực hơn.


237h2.jpg


Bến Kim Long (Huế)


Ở miền Trung có một giới chuyên lên rừng chặt Lồ ô, kết thành bè theo sông về xuôi. Nha Trang có bến Lồ ô bên cầu Hà Ra, Huế có đường Hàng Bè dọc sông Gia Hội cũng là bến Lồ ô. Hình ảnh một tốp bè nối đuôi trên sông Cái (Nha Trang), trên sông Hương (Huế), mỗi bè hai người chống, đẹp biết bao, bây giờ ít thấy, vì nguồn nguyên liệu cạn kiệt. Mặt khác giao thông ngày nay vào tận “vùng sâu vùng xa” (thâm sơn cùng cốc), chuyên chở bằng xe vận tải tiện lợi hơn.

Lồ ô có dáng hiền hòa hơn tre, đặc biệt thẳng cây, đốt dài gấp mấy lần, rất tiện cho công việc làm nò cá, thúng chai, ghe câu… mành treo trước nhà, ngay cả “kỹ nghệ” làm lồng chim cũng cần lồ ô lóng dài (1). Những người hút thuốc lào nhất thiết phải có một đốt tre cái vừa phải để làm chiếc điếu cày: Ống tre cắt một đầu mắt, khoét một lỗ nhỏ cách đầu mắt kia chừng mươi phân, gắn nồi thuốc tựa như nồi thuốc ống điếu (dố), đổ nước tới mức nồi thuốc. Khi hút vê thuốc nhét vào nồi, kê mồm vào miệng ống, châm lửa hít một hơi dài cho cháy hết thuốc, từ từ nhả khói ra. Nếu ngắn hơi, bặp bặp (vừa hít vừa thở) nhiều lần, lần sau cùng cố một hơi cho cháy cạn thuốc. Nhìn một người hút thuốc lào sành điệu, tôi thấy có cái gì đó vừa thành khẩn say mê, quên hết sự đời, vừa cho một hình ảnh rất đẹp lúc nhả khói. Dân thuốc lào còn phân biệt điếu cày và điếu ục. Điếu ục bằng ống bương to hơn. Dân miền Tây Bắc thường dùng điếu ục.


Về thực dụng, tre không bền bằng cây gỗ hay kim loại, song về nghệ thuật, tôi thấy tre trội hơn. Chụp ảnh một “cầu tre lắt lẻo” có người quang gánh đi qua, hay chụp một hàng rào tre ngoằn ngoèo có mấy em bé tan trường về, dễ đẹp hơn, dễ gợi cảm hơn là ảnh một cầu đúc hay cầu sắt. Cũng vậy, nhìn người hút thuốc lào bằng điếu nhôm tôi có cảm giác thuốc không ngon, thiếu đậm đà và không thực…Nếu phải kể công dụng của Tre, Bương…thì còn nhiều nhiều…, tùy nhu cầu và sinh hoạt mỗi địa phương.

Mây đi đôi với Tre, bổ sung nhau trong việc chế tạo đồ dùng hàng ngày, nhất là dân nghềø nông, nghề biển. Mây cũng cho những sản phẩm thủ công giá trị về thẩm mỹ, thu hút khách tiêu thụ không chỉ trong nước mà cả ngoại quốc. Mây đi với tre vì có những phần tre không kham được, như lúc đan kết đồ vật cần sợi dài. Mây rừng dài từ ba bốn mét, mây dai dẻo hơn tre, rất tiện trong công việc tạo hoa văn tỉ mỉ trên đồ dùng (2). Mây hiếm hơn Tre vì Mây ở rừng, thuộc loại dây leo, có vòi gai móc, khó lấy, sơ ý là bị rách da. Ghế mây, gối mây, giỏ mây… Mây làm ra những mặt hàng cao sang đắt giá hơn. Cùng họ với Mây có Song, thân lớn, cứng chắc, làm sườn ghế bàn, hoặc chẻ ra thành sợi nhỏ để đan. Theo những người làm nghề tre đan ở Phú Vinh (3) (huyện Chương Mỹ, Hà Tây) cho biết, thì Song có nhiều ở vùng Quảng Nam Đà Nẵng, và là nguồn cung cấp cho các làng nghề phía Bắc. Mây Tre như đôi bạn chí cốt thường có nhau.

Hình ảnh Tre hiện diện thường xuyên trong đời sống và đi vào lòng người khá sâu đậm, nhất là những ai đã sinh ra và lớn lên giữa lũy tre xanh, thì rất dễ có cảm xúc khi nghe những vần ca dao nhắc đến tre. Mây trên rừng, tre ngay bên hè nhà, tre bao bọc nơi ăn chốn ở, lũy tre làng như hàng rào che chắn gió bão, như ranh giới của một địa phương.


237h5.jpg


Đường làng (Cao Bằng).


“Sau lũy tre xanh” hàm ý gói ghém tình tự quê hương, chốn riêng tư nhiều gắn bó. Ra khỏi lũy tre xanh là tha phương cầu thực, rời xa nơi đã in đậm bao nhiêu kỷ niệm một thời. Cho nên, mỗi khi nhớ quê nhà là hình ảnh lũy tre, bến nước con đò lại hiển hiện ray rứt tâm tư. Tre quả thực ăn sâu vào tâm thức người Việt, từ hình ảnh lũy tre, cho đến những sản phẩm chế tạo từ tre, Tre bàng bạc khắp nơi, Tre nhắc nhở cả gia phong đạo đức. Có lần ghé qua phố cổ Hội An, tôi vô cùng thích thú khi thấy những câu chữ Nho viết trên ống tre hun khói: Phước Như Đông Hải, Khang Thái Giai Lão Bách Niên.(4)


237h4.jpg


Măng tre Phú Thọ


Tre non nhú lên khỏi mặt đất chừng ba bốn mươi phân, gọi là măng, nếu không muốn để thành tre thì bẻ làm thức ăn. Măng thịt mềm, có hương vị hăng hăng đặc biệt, dùng nấu nhiều món ăn mà xứ khác dù có măng cũng không biết. Măng luộc, măng xào, măng chua…thịt xáo măng. Trên nguồn còn có Giang cùng họ với tre, người ta bảo măng giang ngon hơn măng tre, tôi chưa được ăn bao giờ nhưng nghe câu: “Canh măng giang nấu cá ngạnh nguồn”, thấy cũng hấp dẫn. Cá ngạnh, có nơi gọi là cá ngát, là loại cá sông, giống như cá trê, nhỏ bằng ngón tay, thịt ngọt thơm, không mỡ, thôn quê thường kho khô hay nấu canh, tuy vậy làm cá ngạnh dễ bị ngạnh cá châm tay, nhức buốt không chịu nổi nhất là vào mùa rét. Giống cá này ưa châm chích mà kém chịu lạnh. Hồi còn nhỏ tôi có lần đi xúc cá ngạnh, trời rét quá cá nổi đầy trên mặt nước. Từ ngày bỏ quê ra tỉnh, mãi những năm về sau, tôi chưa một lần gặp lại thứ cá nhỏ con ngon thịt này. Ngày nay các quán ăn có món vịt nấu măng, bún măng…Măng khô dùng nấu cỗ bàn vào dịp Tết.


“Con cò mà đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Ông ơi ông vớt tôi nao,

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.

Có xáo thì xáo nướng trong,

Đừng xáo nước đục đau lòng còn con”.

(Quốc văn giáo khoa thư) (5)


Trên nguồn còn có măng sặc (Reed), loại tương cận với trúc, thân chỉ bằng ngón tay, người vùng Tây Bắc luộc chắm với muối gia vị đặc biệt. Không quen rất khó ăn (6). Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Tứ thì có câu:


Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen , Hạ tắm ao.


Tuy thế chưa thấy ai ăn măng trúc, có lẽ măng trúc chẳng đáng bao nhiêu so với măng tre, hơn nữa Trúc là loài đặc biệt quí phái, được dùng làm biểu tượng cho người quân tử. Ngõ vào nhà thường trồng trúc hai bên. Ngày trước cụ Tam Nguyên Yên Đổ mượn trúc nói về cảnh thanh bần lạc đạo:


“'Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.


Thời Đệ nhất cộng hòa ở miền Nam, con dấu của chính phủ dùng hình khóm trúc do ý nghĩa: “Tiết trực tâm hư” (đốt thẳng, ruột rỗng – chí công vô tư). Trúc được chọn trong bộ tranh Tứ Bình nói về hoa lá bốn mùa: Mai, Lan, Cúc, Trúc.


(Còn tiếp)

Trần Công nhung

05-2008


(1)Lồng chim cần lóng dài, như lồng Họa Mi, Sơn Ca, lóng ngắn vấp mắt khó chuốt, lồng không đẹp, xem bài Làm Lồng trang 20 BVNCCK.

(2)Sẽ nói rõ trong bài “Nghề tre đan”

(3) Xem “Nghề tre đan” trong những kỳ tới

(4) Phố Hội trang 161 QHQOK tập 1

(5)Giáo dục phong kiến dạy con người có tình có nghĩa, có ý thức đạo đức gia phong, ngày này không còn thấy trong nhà trường. (không có môn công dân, đức dục).

(6) Bản làng Điện Biên trang 143 QHQOK tập 4


Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 9, Buồn Vui Nghề Chơi Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện tình trên quê hương), Về Nhiếp Aûnh, Thăng Trầm (chuyện buồn vui một đời người), sách dày trên 200 trang, mỗi tác phẩm đều có nhiều phụ bản ảnh màu.

Liên lạc: Tran Cong Nhung P.O.Box 254 Lawndale, CA. 90260 email: trancongnhung@yahoo.com Website: www.ltcn.net
*****************************
source
Vien Dong Daily

Tuesday 1 December 2009

Áo tắm Tommy Bahama Xuân-Hè 2009



Cập nhật lúc 12:45:47 AM - 01/06/2009

TOMMY-BAHAMA_Bahama_005_med.jpg

(Ảnh: Nhóm truyền thông Mercedes-Benz Fashion Week. )

Nhãn hiệu Tommy Bahama ở Seattle gắn liền với miền biển vùng nhiệt đới, từ quần áo, giày dép, vật dụng trong nhà, đèn cầy, xà bông, kem, nước hoa, đến những quá cà phê trang trí như ở ngoài biển.


TOMMY-BAHAMA_Bahama_026_med.jpg

Nhãn hiệu Tommy Bahama ở Seattle gắn liền với miền biển vùng nhiệt đới, từ quần áo, giày dép, vật dụng trong nhà, đèn cầy, xà bông, kem, nước hoa, đến những quá cà phê trang trí như ở ngoài biển. Còn Tommy Bahama là một nhân vật trong trí tưởng tượng của ba nhà sáng lập ra công ty này: Bob Emfield, Lucio Dalla Gasperina, và Tony Margolis. Chỉ 9 năm sau, doanh thu của công ty họ lên đến 300 triệu Mỹ kim. Mùa Xuân 2009, Tommy Bahama lại đưa đến người tiêu thụ những kiểu mẫu áo tắm mới, rất thoải mái, của vùng biển nhiệt đới xanh thẩm, với những nam thanh nữ tú dạo chơi ung dung.

TOMMY-BAHAMA_Bahama_042_med.jpg

TOMMY-BAHAMA_Bahama_077_med.jpg

TOMMY-BAHAMA_Bahama_206_med.jpg

TOMMY-BAHAMA_Bahama_210_med.jpg

TOMMY-BAHAMA_Bahama_213_med.jpg
source
Vien Dong Daily

Monday 16 November 2009

Kể chuyện đường xa: Từ Đài Loan tới Nam Hàn (10)


Cập nhật lúc: 10/21/2009 5:09:20 PM


Tác giả Nguyễn Hồng Anh trước cổng Namdaemum bị đốt cháy, đang được rào để xây lại

Nửa ngày thứ nhất ở Seoul, chúng tôi đã đi tham quan khu phố đa văn Itaewon. Bạn sẽ hỏi tôi sau đó đi thăm cái gì?

Cái gì đó phải là cái làm cho tôi biết tới nhiều nhất trước khi đến Seoul, tức là biểu tượng của thành phố đó. Như tháp Eiffel của Paris, Tượng Nữ Thần Tự Do của Nữu Ước, Tử Cấm Thành của Bắc Kinh hay Nhà Hát Con Sò ở Sydney.

Tôi hầu như không biết gì về các di tích lịch sử của Nam Hàn cho đến tháng 2 năm 2008 khi Namdaemun (nam đại môn hay đại nam môn, tức cổng lớn ở phía nam) bị một ông già 69 tuổi đốt vì bất mãn với chính quyền. Vụ này xảy ra khoảng nửa tháng trước khi Tổng thống Roh Moo Hyun mãn nhiệm (điềm xấu chăng? 15 tháng sau, ông cựu Tổng thống Roh nhảy xuống núi tự tử).

Chính quyền và các cơ quan chữa lửa đã bị chỉ trích vì chậm trễ và kém hữu hiệu trong việc dập tắt ngọn lửa kéo dài trong 5 tiếng đồng hồ đã tàn phá hầu như toàn bộ một di tích lịch sử lâu đời nhất của nước Đại Hàn được xây dựng cách đây hơn 600 năm dưới thời vua Thái Tổ của triều đại Triều Tiên (Teajo of Joseon).

Nhiều người Đại Hàn sửng sốt, khóc như cha mẹ họ chết khi nghe và thấy Namdaemun bị cháy. Họ tức giận vì cơ quan chữa lửa làm việc tắc trách, tưởng dập tắt được ngọn lửa vào buổi chiều nhưng không ngờ lửa còn úng bên trong, đến khuya bùng phát dữ dội khiến mấy trăm nhân viên cứu hỏa chẳng làm gì được. Viên chức coi sóc di sản văn hóa ở Nam Hàn nhận trách nhiệm và xin từ chức.

Phải tới Namdaemun để xem bây giờ cái cổng này ra sao! Bởi vậy, qua buổi sáng hôm sau, chúng tôi tự mò mẫm lên di tích lịch sử này để tham quan, và cũng đi bằng phương tiện xe điện Subway.

Từ trái: hình chụp Namdaemun vào các năm 1888, 1905, 1929, 2006 và bị cháy năm 2008

Ấn tượng đầu tiên về người Đại Hàn

Nhìn bản đồ, tôi chỉ biết rằng cổng Namdaemun Gate hay chợ Namdaemun Market gì đó nằm giữa ga Seoul Station và ga City Hall Station. Một phụ nữ trẻ và đẹp --dù chưa bằng các diễn viên trong “phim tập Hàn Quốc”-- nói được tiếng Anh thấy vợ chồng chúng tôi loay hoay trước máy bán vé tự động bèn tới giúp.

Khác với những lần trước mua vé đi trong thành phố chỉ 1,000 won, lần này lên tới 1,500 won. Cô gái giải thích nhưng tôi không hiểu.

Cô bảo chúng tôi lên tới trạm Seoul thì lấy xe đường số 4, tới trạm số 425 còn có tên là Hoehyeon nhảy xuống, vì Namdaemum Market nằm trong khu vực trạm này. (Xin ghi ra một thí dụ về các trạm xe Subway như trạm 425: số 4 là Line 4, 25 là trạm số 25. Mỗi trạm ngoài cái tên, còn có số như trạm 425, rồi 424, 422 nếu bạn đi dần lên hướng bắc).

Tôi còn cẩn thận xin cô gái ghi tên trạm Hoehyeon lên trên miếng giấy để có gì tôi còn nhờ người đi đường giúp. Cô đọc cho tôi một lần cái tên Hoehyeon này nhưng sau đó tôi không cách nào đọc lại được vì cái tên hơi dài dễ tới 5 âm và khó đọc nên chỉ còn biết cầm tờ giấy đưa cho người ta xem khi nhờ vả.

Tới gần Seoul Station, tôi gợi chuyện với một cô gái trông có vẻ thân thiện, hỏi đường. Cô bảo nhảy xuống lấy xe đi Hoehyeon. Nhưng khi ra cửa để đổi xe, nhét vé vào máy, cửa không mở. Một người Đại Hàn thấy vậy bấm nút emergency và cửa mở. Ông ta chỉ chúng tôi tới quầy bán vé gần đó.

Tôi đưa vé cho người bán vé, cầm tờ giấy có ghi chữ Hoehyeon và nói tôi muốn tới trạm đó nhưng ông bán vé lấy cái vé và đưa cho tôi 500 won.

Tôi không chịu nhận tiền, đòi lại cái vé, nhưng ông ta cầm cái vé dấu sau lưng và chỉ tôi ra hướng có hai chữ tiếng Anh “Way Out”.

Bây giờ tôi mới hiểu việc mua vé 1,500 won là để phòng trường hợp mình đi xa quá quãng đường ấn định 1,000 won thì sẽ không gặp trở ngại khi đi ra cổng của trạm. Nếu đi chưa tới giá tiền đã mua, sẽ được trả lại như trường hợp của chúng tôi lúc này.

Thấy thiên hạ chung quanh nhìn hai bên nói hai thứ ngôn ngữ khác nhau và hầu như không hiểu ý nhau, tôi đành cầm 500 won mới được thối lại và nói với nhà tôi hoặc tiếp tục mua một cái vé mới 1,000 won hoặc đi bộ tới Namdaemun Market vì chỉ còn một trạm xe, cao tay lắm mất chừng 15 đến 20 phút đi bộ, lại được dịp ngắm thành phố. Nhưng khi ra bên ngoài, tôi không biết sẽ đi hướng nào, vì nếu đi lộn hướng thì sẽ mất thời gian và mệt.

Thấy một thanh niên ngoài 20 tuổi mang kiếng cận thị đi với một cô gái, tôi chận họ và hỏi đường tới Namdaemun. Anh thanh niên chỉ cho tôi chiếc xe bus, nhưng tôi nói tôi không biết mua vé như thế nào, vả lại muốn đi bộ để xem thắng cảnh vì tôi là du khách và rất muốn vừa đi vừa ngắm cảnh đẹp của đất nước này.

Nghe vậy, anh ta bảo hãy cùng đi bộ với anh tới đó. Trò chuyện dọc đường, thấy cặp thanh niên này trắng trẻo, cao ráo và hiếu khách, tôi nói chúng tôi thường xem “phim tập Hàn Quốc” và thấy hai anh chị cũng đẹp như các tài tử trong phim vậy. Cô gái tỏ ra bẽn lẽn nhưng tôi không biết cô có hiểu không vì cô không nói chuyện trong khi anh thanh niên cười, nói anh không nghĩ vậy.

Tôi hỏi có phải anh đang còn đi học không nhưng anh bảo đang làm việc part time. Chúng tôi đi qua những cơ sở lớn như tháp Shinsegae là một department store nổi tiếng của thành phố mà sau đó chúng tôi có lên xem để coi trung tâm bách hóa này đẹp như thế nào.

Đến khu vực sầm uất với bảng hiệu ngộp mắt, anh thanh niên bảo chúng tôi đấy là cái chợ mà chúng tôi muốn đến. Tôi đã thấy hai chữ Namdaemun Market, chúng tôi chia tay. Tôi không biết cặp thanh niên này tiện đường cùng đi với chúng tôi hay thật sự họ đã bỏ công chỉ đường. Vì thế, qua ngày thứ hai và được chỉ đường tận tình như thế, tôi thật sự yêu thích đất nước này, nghĩ rằng những ngày du lịch ở đây sẽ lý thú như ở Nhật Bản cách đây hai năm.

Hai người chưa tới 5 đô: cảnh đứng ăn trên đường đi trong chợ Namdaemun

Từ Namdaemun...

À a! Định đi xem cổng, cái cổng bị cháy nhưng bây giờ lại được xem cái chợ: Namdaemun Market. Tôi có đọc đâu đó nói chợ Namdaemun rất lớn, nổi tiếng sinh hoạt 24 giờ trong ngày (lại một New York không bao giờ ngủ), đã có từ hàng chục năm hay hàng thế kỷ gì đó. Chúng tôi thức dậy trễ, mất thời gian kiếm đường nên đã gần hai giờ chiều mà chưa có gì trong bụng ngoài ly cà phê ở khách sạn.

Thấy sinh hoạt ở chợ này giống chợ Bến Thành tại Sài Gòn ngày xưa, tôi bảo nhà tôi cứ đi thêm vài đoạn trong khu vực này kiếm gì ăn dọc đường kiểu du khách ba-lô, khỏi cần vào trong tiệm hay các nhà hàng.

Thế là chúng tôi đã ăn ở những quán vỉa hè như từng thấy trong phim Đại Hàn. Trời nắng chang chang, tôi thấy có những ông, bà đứng cạnh những sạp bán thức ăn giữa rừng người chen chúc, vừa húp những tô mì vừa lấy giấy tissue treo trên mái sạp chùi mồ hôi nhễ nhại trên mặt. Trời Seoul đang mùa xuân nhưng ban ngày trời nắng và khá nóng, buổi tối có vài đêm rất lạnh phải mang áo ấm.

Tôi và nhà tôi hòa nhập với đám đông người địa phương, hưởng cái thú vừa đứng giữa đường vừa ăn những xâu thịt luộc hâm nóng trên nồi nước khói nghi ngút hay húp một tô mì Đại Hàn lần đầu tiên trên xứ này. Bạn đoán thử tốn bao nhiêu? 4,000 won, chỉ hơn $4 Úc kim.

Namdaemun Market -nằm sát Namdaemun Gate- tuy chiếm một diện tích lớn, vài block của khu phố, nhưng do xây từ lâu nên đường sá trong chợ rất hẹp, chỉ dành cho người đi bộ, thỉnh thoảng có vài con đường xe nhỏ vào được, nhưng chủ yếu xe chuyên chở của các cửa tiệm, sạp hàng.

Chợ này là chợ bán lẻ lớn nhất ở thành phố Seoul, là nơi thu hút du khách ngoại quốc, nhưng phần lớn khách hàng vẫn là người Đại Hàn.

Giống chợ Bến Thành hay chợ Tân Bình, Namdaemun Market chủ yếu bán áo quần với giá sỉ và những thứ khác như giày dép, dù, vớ, ví và những đồ lưu niệm. Những người ở các thành phố khác đến đây mua hàng và đem về bán ở các tỉnh lẻ. Các tiệm lớn ở ngoài mặt đường cái bán những đồ cao cấp như máy ảnh.

Một con đường tiêu biểu bên trong chợ Namdaemun

Namdaemun (Nam Đại Môn) trước đây có tên Sungnyemun là một cái cổng lịch sử nằm giữa lòng kinh đô Hanyang (Hán Thành). Ngày xưa, vài năm sau khi lên ngôi, vua Thái Tổ đã cho xây cung điện Gyeongbokgung ở phía bắc thành phố dựa lưng vào núi phía bắc đồng thời xây thành quách bọc kinh đô đến gần ngọn núi ở phía nam (Namsan) nơi hiện có tháp viễn thông Seoul Tower.

Theo các tài liệu, năm 1395, vua Thái Tổ cho xây một cái cổng ở phía nam của kinh đô và đặt tên Sùng Lễ Môn (Sungnyenmun), có nghĩa là nơi tổ chức lễ hội, nơi tiếp đón các quan khách ngoại quốc khi họ đến viếng kinh đô. Ngày nay, cổng này được biết với cái tên quen thuộc là Nam Đại Môn.

Cổng hai tầng này được làm bằng đá và gỗ, mái ngói cong như mái chùa, có hình dáng giống cổng vào Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh hay Cổng Ngọ Môn ở cố đô Huế, quê nhà của người viết.

Công trình này được hoàn tất vào năm 1398. Năm 1447, Namdaemun được xây lại và trải qua mấy trăm năm đã được trùng tu nhiều lần do hỏa hoạn hay chiến tranh gây nên.

Thời gian Nhật chiếm đóng Triều Tiên, các bức tường thành quanh kinh đô được phá bỏ để có thể mở rộng đường xá, giao thông dễ dàng. Cổng phía tây (Seodaemon, Tây Đại Môn) cũng bị phá luôn, chỉ còn hai cổng phía nam và phía đông. Tôi có nghe còn có một cổng phía bắc gọi là Bukdaemun, nhưng không biết nằm ở đâu và hiện còn tồn tại hay không.

Riêng Namdaemun Gate trong ngày chúng tôi đến xem chỉ còn là bãi đất trống. Di tích tồn tại trong 6 thế kỷ qua chỉ còn là một số đá vụn. Người ta dựng một bức tường cao, bọc quanh cái cổng cũ vốn như cái bùng binh của trục giao thông (thật ra xe chỉ chạy quanh khoảng ba mặt, còn một mặt chỉ đi bộ). Trên bức tường cao đó, người ta vẽ vài bức hình cái cổng cũ khiến từ xa, bạn có thể lầm tưởng đó là cổng thật. Nhưng sẽ không lạ khi bạn thấy trong hình chụp nào đó, chỉ ở một góc cạnh mà có tới hai cái cổng Namdaemun!

Trong khi nhà tôi đi vòng vòng trong chợ Namdaemun, tôi đi quanh cổng (giả) Namdaemun để quan sát. Nhờ vậy, tôi được xem những tấm hình phóng lớn cổng Namdaemun chụp vào các năm như:

- 1888: hình đen trắng, quanh cổng có những căn nhà gỗ lụp xụp mái tranh.

- 1905: sát cổng có những nhà mái ngói và một đường rầy xe lửa chạy ngay giữa lòng cổng.

- 1929: cổng được tu bổ trông khang trang, không còn nhà cửa nằm sát cổng, đường rầy xe lửa không còn, những sĩ quan Nhật đi lại trước cổng trên con đường lát gạch hay xây xi măng.

- Một số hình đen trắng của những năm sau đó cho thấy cổng Namdaemun được bảo trì đúng mức, được ngăn lại bởi một bức tường đá vòng tròn để bảo vệ di tích này.

Năm 1962, chính phủ đã liệt Namdaemun vào di sản văn hóa (National Treasure) đầu tiên của Nam Hàn.

Vậy mà chỉ vì một ông già nổi khùng mà một di tích văn hóa lâu đời nằm giữa lòng thủ đô trở thành bình địa.

Tân Tổng thống Lee Myung-bak khi vừa lên nhậm chức sau vụ đốt phá đã tuyên bố sẽ xây dựng lại cổng Namdaemun nhưng không phải lấy tiền từ công quỹ mà sẽ lập ủy ban vận động để quyên góp từ các tư nhân, dân chúng. Tổng thống Lee quan niệm đây là di sản của dân do đó cần sự đóng góp trực tiếp của dân, nhất là nhân dân thành phố Seoul.

Dự trù sẽ mất 3 năm mới xây xong với chi phí $14 triệu đô la. Khi chúng tôi tới xem, đang thấy công tác ủi và san bằng đất. Cũng giống cung điện nổi tiếng Gyeongbokgung của triều đại Triều Tiên được xây vào năm 1395, từng bị cháy và được trùng tu lại, có thể còn đẹp hơn cung điện gốc thủa xưa mà chúng tôi đã có dịp viếng trong chuyến Hàn du này, tôi nghĩ Namdaemun sẽ tái sinh.

Người Đại Hàn rất quý trọng các di tích văn hóa của họ. Họ có lòng và có tiền. Vì vậy, đến thăm viếng thủ đô của người Đại Hàn, chúng ta có rất nhiều thứ để chiêm ngắm, chỉ sợ không có đủ thì giờ mà đi xem.

Tác giả trước cổng Dongdaemun (Đông Đại Môn)

... đến Dongdaemun

Đến khi đặt chân tới Seoul, tôi mới biết ngoài Namdaemun, còn có Dongdaemun Gate và Dongdaemun Market.

Dongdaemun (Đông Đại Môn hay cổng phía đông) cách Namdaemun chừng 2.5 cây số đường chim bay, và dĩ nhiên nằm ở phía đông thành phố.

Phải tới Đông Đại Môn cho đủ bộ! Nhưng chúng tôi đi trong một ngày khác.

Nhìn bản đồ thấy cổng phía đông nằm trong quận Jongno-gu, từ khách sạn chúng tôi đi xe tuyến đường số 5 tới trạm Singil và đổi tuyến đường số 1 đi một lèo lên tận cổng Dongdaemun, mất khoảng 45 phút.

Bước ra khỏi ga xe điện là thấy lưng của cái cổng. Chúng tôi đến gần xem bản hướng dẫn và được biết cổng phía đông này được xây vào năm 1397, được trùng tu vào năm 1453 và kiến trúc đang có hiện nay được xây vào năm 1869.

Cũng từa tựa Namdaemun, Dongdaemun là một tường đá cao, có cửa chính vòng cung. Trên tường đá cao này là đài quan sát bằng gỗ hai tầng, mái ngói. Cửa cổng khóa nên chúng tôi không có dịp lên quan sát, do đó chúng tôi băng qua đường để tham quan khu chợ được gọi là Dongdaemun Market.

Nhưng hoàn toàn khác biệt với chợ Namdaemun, chợ Dongdaemun là một khu phố tân thời với nhiều cao ốc, dưới hầm cũng có những khu bán đủ thứ.

Chúng tôi đi vài vòng ở nơi được gọi là lý tưởng cho du khách nhưng chẳng thấy gì hấp dẫn bởi các mặt hàng không quá sang như ở trung tâm phố mà cũng chẳng bình dân như khu chợ cũ Namdaemun. Do đó, tôi đề nghị với nhà tôi dùng buổi tham quan này đi bộ từ Dongdaemun về trung tâm phố (City Hall Station) để ngắm phố xá.

Lại ăn đứng tại một sạp dọc đường trên một đại lộ ở Seoul

Bạn có thể tưởng tượng giữa trời nắng đi bộ hàng cây số trên đường phố xa lạ để chỉ ngắm phố không mà thôi? Dù có lúc mệt lả vì nắng, vì mỏi chân, nhưng tham quan xứ lạ phải vậy thì mới hứng thú, như những du khách tây ba-lô. Đó là kinh nghiệm du lịch của tôi trong hai chục năm vừa qua.

Nghe kể vậy chắc bạn không còn dám đi ngắm cảnh với tôi nữa đâu! Nhưng bạn nên biết –nói nhỏ thôi nhé-- tuổi tôi cũng đã gần sáu bó rồi đấy. Sau khoảng hai tiếng lội bộ và có lúc cũng chẳng biết mình đang ở nơi mô, nhà tôi đã bắt đầu thấm mệt, giống lần chúng tôi cuốc bộ giữa trưa dưới cái nóng 40 độ C từ ga xe lửa cố đô Kyoto lên chùa Kiyomizu ở Nhật cách đây 2 năm.

Cho nên, chúng tôi phải kiếm một trạm Subway gần nhất để đón xe điện ngầm về khách sạn chuẩn bị cho cái hẹn tối nay với ông Lý Hi Uyên, hậu duệ của Hoàng tử Lý Long Tường, một trong những mục tiêu của chuyến du lịch lần này của chúng tôi (còn tiếp).

(TVTS 1216 - 15.7.2009)

******************** source TiVi Tuan San

Wednesday 11 November 2009

Ngọc Thái và phụ nữ miền sơn cước



Cập nhật lúc 9:53:51 AM - 22/07/2008

ngocthai_fairystream.jpgFairy Stream, ảnh: Ngọc Thái

Bài: Trần Công Nhung

Từ hồi nhỏ, tôi đã mê hình ảnh cô sơn nữ, nhưng chưa hề đặt chân lên miền sơn cước, chưa bao giờ thấy dung nhan cô sơn nữ.


Cho đến khi xa quê hương những năm tháng dài, lúc trở về mới có dịp gặp sơn nữ trên nương, sơn nữ bên suối, sơn nữ với bầu vú căng sữa đang cho con bú dưới ánh nắng mai, v.v. Nhưng vẫn chưa có một dịp may thật sự cận kề để chụp được tấm ảnh ưng ý. Bao nhiêu lần về Hòa Bình, qua Lai Châu mà chưa gặp dịp may, hoặc có cũng chỉ như mây bay gió thổi, chẳng bắt được gì (1). Anh em nhiếp ảnh trong nước, có thể nói sau 75 đã khai thác mảng đề tài này khá đậm, bao nhiêu huy chương quốc tế đã mang về cho làng ảnh VN. Tuy nhiên, với tôi cách nhìn người phụ nữ sắc tộc (2) của anh Ngọc Thái mới thật làm tôi thích thú như chính mình bắt gặp. Hôm nay, xin giới thiệu một vài tác phẩm của anh.

Trong bài trước, có đề cập tác phẩm “Fairy Stream”, tấm ảnh chụp 4 cô thiếu nữ Thái đang tắm suối sau buổi “đi nương” (đi làm rẫy) về. Người Thái vùng Sơn La có tập tục đi nương về là xuống suối tắm gội, họ tự nhiên như ở nhà. Váy vẫn quấn nhưng mình trần. Gái Thái cô nào cũng đầu tóc dài, nhìn kiểu búi tóc có thể biết họ có chồng hay chưa (3), không như người Kinh đeo nhẫn. Hình ảnh độc đáo khi gội đầu là hình ảnh hất ngược tóc ra sau, một cầu vòng nước bạc vung từ mặt suối ra sau. Hình ảnh chỉ có trong khoảnh khắc, hên xui chỉ mấy giây, chỉ một lần. Tác phẩm loại này hiếm khi được dàn dựng (set up), đấy cũng là lý do làm cho tác phẩm có một không hai. Trong “Fairy Stream”, nhiếp ảnh gia Ngọc Thái được cái may gặp 4 cô đang tắm trong ánh nắng chiều không còn gắt, hậu cảnh tối, tiền cảnh mặt nước dao động vẽ ra đường nét của một “cơn sóng ngầm” , nhưng sau lưng các cô là một vạt bóng mây trắng êm đềm. Nhân dáng mỗi cô một khác, hai cô đứng hai cô khom, đặc biệt cô trên “đường mạnh” đang hất ngược tóc cho nước tung lên. Bốn cô gái xếp theo hàng chéo góc, chia sắc độ của ảnh thành ba mảng một cách kỳ lạ. Ảnh đi từ động (mặt nước tiền cảnh 1/3), 1/3 dành cho sắc độ của bóng mây chiều yên bình tự tại (không bị tiền cảnh khuấy động), 1/3 tối dần dành cho hậu cảnh như báo hiệu kết thúc một ngày. Trong ảnh rõ ràng con người chiếm không bao nhiêu nhưng con người sống thực và mọi màu sắc đường nét chung quanh như chỉ để tôn vinh con người. Hình ảnh cho ta cảm xúc niềm vui của một ngày, hạnh phúc hồn nhiên chỉ tìm thấy nơi miền sơn cước.

Ngọc Thái còn nhấn mạnh thêm ở đây bằng cách bố cục thật chặt, không rác rến dư thừa chung quanh. Một tác phẩm độc đáo cách khách quan không xào nấu biến chế. “Fairy Stream” năm 2005 được giải Danh dự Vàng cuộc thi Môi trường về Nước của LHQ. Tạp chí Spotlight của Anh ký hợp đồng sử dụng 8 tháng. Tác phẩm này cũng được 1 trong 10 huy chương vàng FIAP tổ chứ 2 năm một lần.

“Fairy Stream” đã mang về cho anh cũng như cho giới nhiếp ảnh ở quê nhà niềm tự hào với bạn bè năm châu.

Trần Công nhung

5-2008

(1) Đọc bài Đi Hòa Bình QHQOK 2 in năm 2003

(2) Tôi tránh cách nói “phụ nữ dân tộc”, nó ngây ngô vô nghĩa. Độc giả trong nước cảm thông cho. Nếu người Mỹ cũng gọi những cộng đồng thiểu số là “người dân tộc’ thì rất buồn cười.

(3) Đọc Điện Biên Phủ QHQOK 4

Nhà sưu tập tranh... hai mặt


Cập nhật lúc 10:51:37 AM - 10/10/2008

fbi-picasso-tetedefemme-w.jpgTrong bài báo ngày 11.8.08, với nhan đề “Stolen Art Uncovered,” tờ New York Times giở lại hồ sơ về cái chết - ông qua đời vì đột quỵ tim - của một nhân vật kỳ bí ở New York, người nổi tiếng về trí nhớ, nhà khảo cứu thần đồng, người lúc nào cũng có một bức màn bí mật thân thế bao phủ, và chủ nhân một bộ sưu tập hơn 300 tác phẩm nghệ thuật...

[Bức “Cái đầu của người đàn bà” của Pablo Picasso, nguồn: FBI]


Nội dung bản tin có những chi tiết đáng chú ý như sau: Vào năm 2006, nhà chức trách tìm thấy một bộ sưu tập nghệ thuật, về số lượng lẫn giá trị nghệ thuật tương đương với một bảo tàng viện cỡ trung bình, trong một căn apartment ở New York City.

Nhưng trong bộ sưu tập nghệ thuật đó - bao gồm tác phẩm hội họa, điêu khắc, bản vẽ phác thảo - của những nghệ sĩ bậc thầy như Picasso, John Singleton Copley, Alberto Giacometti, Giorgio Morandi và Eugene Boudin, có một số - bị khám phá ra sau ngày chết của chủ nhân - là đồ ăn trộm. Chủ nhân bộ sưu tập này là một tên tuổi rất quen thuộc, nếu không muốn nói là nổi danh, tại New York City, tên là William M.V. Kingsland, qua đời tháng 4, 2006 ở tuổi 62.

Lúc bộ sưu tập được tìm thấy, không ai nghĩ đó là đồ ăn trộm. Ông Kingsland không để lại di chúc cũng như không có ai nhận là thân nhân họ hàng hưởng gia tài nên thành phố New York đã mướn hai nhà đấu giá Christie's và Stair Galleries bán bộ sưu tập này. Nhưng sau đó, nhà Chrisitie's khám phá ra là một số tác phẩm đã bị đánh cắp từ thập niên 1960 và 1970. Nhà Stair Galleries đã bán được vài tác phẩm và một trong những người mua, một nhà sưu tập tranh, khám phá ra họ đã mua đồ ăn cắp. Cả hai nhà đấu giá đều báo cáo sự việc cho ông Jim Wynne, một nhân viên đặc biệt trong đơn vị chống ăn cắp nghệ thuật “Art Crime Team” của FBI.

Công việc của FBI là tìm ra người chủ hợp pháp của những tác phẩm bị đánh cắp để trả lại. Hai phần ba bộ sưu tập đã có người đến nhận, chỉ còn khoảng trên 100 tác phẩm vẫn còn chờ châu về hợp phố, được chụp hình đưa lên các “website” của FBI hay của một số tờ báo để may ra có chủ nhân nào xuất hiện trình giấy tờ tài liệu chứng minh lãnh về.

fbi-langley-rivercows-w.jpgNgười hai mặt

Nhân vật trọng tâm và kỳ thú nhất trong vụ này không ai khác hơn là William M.V. Kingsland, được một bài báo của tờ New York Time số ra ngày 13.4.2006 cho biết lai lịch và đời sống của ông như một bộ tiểu thuyết đầy tính chất kỳ bí và thần thoại. Bài này viết vào thời điểm chưa ai biết sự thật về bộ sưu tập, nên mang nội dung ca ngợi con người và cuộc đời của Kingsland như là một dân New York ngoại hạng.

[Bức “Đàn bò bên dòng sông” của William Langley, nguồn: FBI]

Thiên hạ mệnh danh cho ông là một bộ tự điển địa lý biết đi. Bài báo của ký giả Gary Shapiro viết mô tả Kingsland là một nhà khảo cứu thần đồng và là một nhà gia phả học kỳ tài. Một người bạn nối khố là Eliot Rowlands cho hay, Kingsland là một bộ sách lịch sử biết đi của khu thượng lưu phía đông New York Thượng.

Kingsland là một người rất bí mật. Ông có nhiều bạn thân nhưng rất ít người có cơ hội được vào căn chung cư của ông. Nói chuyện với bạn bè, ông thường đánh trống lảng mỗi khi bị hỏi về thân thế, lai lịch hay về gia đình. Lúc sanh tiền, Kingsland là một tay thổ địa New York City. Một thành viên của Ủy ban bảo tồn di tích lịch sử “Landmarks Committee of Community Board 8” gọi Kingsland là một cuốn tự điển địa lý biết đi. Không địa chỉ nào mà Kingsland không biết. Ông biết người nào đã từng sống ở đó, chuyện gì đã xảy ra. Tội ác, ngoại tình, gái bỏ nhà theo trai, Kingsland biết hết.

Với nụ cười mỉm bí hiểm, ông Kingsland là một nhân vật nổi bật trong thế giới những người bảo tồn lịch sử, những nhà trưng bày tranh, và những nhà bán đấu giá tại New York. Mùa đông, ông đội mũ beret, đeo khăn quàng. Mùa hè, ông đội mũ lưỡi trai nhựa làm ông nhìn giống như đầu con cá mập. Khoác cái áo phủ ngoài áo sơ mi trắng Oxford, Kingsland có một lối ăn mặc tự nhiên thoải mái.

Kingsland là người chiến đấu cho lối sống cũ không mệt mỏi. Theo tác giả Barnaby Conrad III, Kingsland như khó chịu vì thế kỷ 20 đã xảy ra. Một người trong giới đấu giá, lần đầu tiên gặp Kingsland vào thập niên 1970, cho hay, Kingsland có kiến thức gợi lên “bóng dáng một thế giới khác.”

Kingsland được ủy ban di tích lịch sử Landmarks Committee of Community Board 8 mướn làm ủy viên công vụ. Trong những phiên họp, Kingsland ngồi bắt chân chữ ngũ, ngả người ra sau và chỉ nghe. Những khi phát biểu, ông ta nói rất ít nhưng chắc như đinh đóng cột.

Tại một phiên họp của UB Landmarks, người ta đưa ra một tấm hình chụp một căn nhà chỉ còn vỏn vẹn cái cửa ra vào, theo lời một thành viên nhớ lại, thế mà Kingsland nói vanh vách cái địa chỉ đó là gì. Ông biết giá những căn nhà townhouse, bề ngoài những tòa nhà, kiểu tân trang do kỹ sư nào vẽ, thậm chí cả lịch sử thay đổi các cửa sổ tòa nhà ông cũng biết. Ông thu thập những vi phạm di tích lịch sử rồi báo cáo cho ủy ban.

Thành tích sáng chói của Kingsland là những chi tiết tuy vụn vặt nhưng chính xác về đời sống trong các tòa nhà Upper East Side qua nhiều thế hệ, được kể theo lối mô tả các nhân vật tiểu thuyết của Henry James hay Edith Wharton.

Ông Kingsland dùng cái tài mọn nhưng độc đáo đó để giúp cho các tổ chức. Trí nhớ tuyệt luân của Kingsland đã giúp rất nhiều cho việc gây quĩ bảo tồn Park Avenue. Chả là vì ông biết hết những người sẵn sàng bỏ tiền ra làm đẹp Park Avenue. Ông Kingsland biết tổ tiên của những người này, từng là cự phú trong ngành bia hay thép hay đã từng là người hùn hạp trong công ty dầu hỏa Oil Standard làm mưa làm gió một thời. Ông lôi những hậu duệ còn sống đó ra xin mở rộng hầu bao đóng góp làm đẹp Park Avenue. Không người nào lắc đầu nổi, chỉ vì danh giá dòng họ.

fbi-forain-lapianiste-w.jpgÔng Kingsland giúp ủy ban phục hồi Thánh đường Ba Ngôi Church of Holy Trinity tại phố East 88th Street bằng cách đi tìm các hậu duệ dòng họ Rhinelander. Ông cũng là tình nguyện viên cho văn phòng New York của học viện American Academy tại Rome.

[Bức “Nữ dương cầm thủ” của Jean Louis Forain, nguồn: FBI]

Với nghĩa trang New York Marble Cemetery, không ai có thể chối cãi công lao đóng góp to lớn của Kingsland khi ông thiết lập một bảng phả hệ giữa người trong trong mồ nổi với những hậu duệ còn sống. Một ủy viên ban quản trị nghĩa địa, bà Anne Brown, đã thiết lập gia phả cho nghĩa trang trong thế kỷ 19, rồi trao phần còn lại cho ông Kingsland làm nốt. Ông thiết lập gia phả những ngôi mộ có niên đại từ 1905 đến 1910. Ông vùi đầu trong thư viện New York Society Library và ghi kết quả lên hàng trăm tờ giấy vàng chi chít chữ. Rồi ông gửi những gia phả đầy đủ chi tiết này cho bà Brown. Sau này bà Brown kinh ngạc khi biết ông Kingsland đã phỏng vấn hàng ngàn người còn sống, chỉ ghi chép một bản rồi gửi hết cho bà, không giữ một bản sao nào cho mình. Nhưng đến khi thảo luận với bà, ông vẫn nhớ vanh vách. Khâm phục thiên tài trí nhớ của Kingsland, bà Brown dám tuyên bố rằng: “Nếu có hết tất cả tiền trên thế giới này, chúng tôi cũng không thể nào mướn một người làm được cái việc mà ông ấy đã làm.”

Kingsland có thể chặn bạn bè đang đi ngoài hè phố và nói chuyện suốt ngày không hết chuyện. Kingsland có thú vui đích thân đem thư đến tận địa chỉ người nhận, không cần bưu điện. Là người có máu căn cơ, ông dùng lại các phong bì. Bạn thân thường nhận được những phong bì không có thư, nhưng có những mẩu báo cắt ra cho thấy ông đang nghĩ đến họ. Chẳng hạn, Kingsland gửi cho một người bạn đang sống tại Anh quốc một mẩu tin cắt ra từ tờ báo về cái chết của một phụ nữ tên Mrs. Going. Ông dí dỏm viết thêm: “Going, going, gone.” (Bà Going, đang đi (going), đã đi mất rồi)

Còn rất nhiều chuyện về nhân vật kỳ tài Kingsland vừa lập dị vừa thú vị. Ông cho biết cái tên lót viết tắt M.V. có nghĩa là Milliken Vanderbilt, khoe đã lập gia đình một lần, rằng cha mẹ ông sống tại Florida. Hiện không biết có thân nhân nào còn sống không. Một hậu duệ trực tiếp của ngài Ambrose Cornelius Kingsland, một thị trưởng New York hồi thế kỷ 19, là ông James Kingsland, cho hay, ông không tin William Kingsland có liên hệ gia phả họ hàng gì với ông.

Ông James Kingsland nói đúng. Sau khi ông William Kingsland chết lâu rồi, giới truyền thông mới khám phá ra ngay cái tên Kingsland cũng không phải là tên thật. Ông ta tên thật là Melvyn Kohn, những năm đầu đời cư ngụ ở Bronx, trước khi xin phép đổi tên thành Kingsland, vì ông ta cho cái tên này nghe văn chương hơn, giúp ông ta tiến thân trong xã hội thượng lưu ở Manhattan. Và ông đã suy nghĩ đúng khi đổi ra tên này.

Ông Kingsland để lại một ấn tượng tốt đẹp là lúc nào cũng tỏ ra nhiệt tình với bạn bè và những người được ông tình nguyện giúp việc.

Ở căn chung cư của Kingsland, bạn bè nhớ lại từ sàn nhà lên tới trần, ông Kingsland treo những tác phẩm mỹ thuật la liệt, có khi chồng lên nhau, mục đích không phải là trưng bày mà để không bị hư hỏng. Những kệ sách tranh chỗ của những tấm thảm cuốn, những món đồ lạ mắt, những đồ đồng và những bản thảo trong các hộp.

Không ai ngờ một người lắm tài và dễ thương như thế lại là một tên trộm nghệ thuật thành New York City.

fbi-traub-tablewall-w.jpgNghệ thuật đang chờ “châu về hợp phố”

Tháng 8, 2008, tờ New York Times loan tin rằng, hai năm sau cái chết của nhân vật kỳ tài lẫn kỳ bí William M.V. Kingsland, FBI vẫn còn đi tìm các chủ nhân hợp pháp những tác phẩm trong bộ sưu tập mỹ thuật trị giá bạc triệu. Xin nhắc lại, ông Kingsland không để lại di chúc và căn chung cư biến thành kho chất đầy những tác phẩm nghệ thuật, trong đó có một bức tượng bán thân của Giacometti được đánh giá từ $900,000 đến $1.2 triệu. Một bức họa nhỏ của Giorgio Morandi sau này bán được $600,000. Cả hai tác phẩm này được xác nhận bị mất cắp.

[Bức “Cái bàn và bức tường” của William Traub, nguồn: FBI]

Một số trong bộ sưu tập của ông Kingsland có vẻ như là của chính ông theo cái nghĩa pháp lý. Nhưng cơ quan điều tra liên bang FBI, sau khi lọc lựa phân loại kho tàng nghệ thuật có giá này, đã khám phá ra trong số hơn 300 tác phẩm tìm thấy trong căn chung cư của ông có những bức tranh ăn cắp là của Picasso, Copley, Fairfield Porter và Odilon Redon, những món khác có giá trị thương mại nhất thì cũng khó mà xác minh là của ông ta.

Có những chủ nhân là bảo tàng viện hay phòng trưng bày tranh, bị Kingsland ăn cắp, nay đã đóng cửa. Cho đến nay, còn 105 tác phẩm vẫn chưa biết sở hữu chủ thật là ai và hiện nằm trong tay nhà đấu giá Christie's giữ giùm. Giá trị của những tác phẩm này đang được nói đến là $2.4 triệu.

Nhà chức trách New York cho hay, nếu không có ai xuất hiện nhận chủ quyền những tác phẩm còn lại, họ sẽ tổ chức bán đấu giá tất cả. Tiền thu được sẽ sung vào quĩ tài sản Kingsland. Đến nay, tưởng ông ta không còn ai là thân nhân, đã có 4 người bà con và một người chú xuất hiện tự nhận là người thừa hưởng gia tài của ông Kingsland.

Chúng ta lại phải chờ xem màn cuối của câu chuyện về một nhân vật sống hai bộ mặt kỳ tài và kỳ bí với bộ sưu tập ăn cắp vô tiền khoáng hậu sẽ kết thúc ra sao trước khi đi vào lịch sử thành phố New York City?

Có thể gọi ông Kingsland là con người hai mặt mà thế giới muôn màu muôn vẻ thành New York City sản sinh ra.

****************

source

Vien Dong Daily News



Duyên dáng trong nhiếp ảnh



Cập nhật lúc 4:59:53 PM - 19/01/2009

Bài và ảnh: Thái Minh Trung, M.D.

LTS: Vào ngày thứ Bảy, 24 tháng Giêng 2009, Hội Ảnh Nghệ Thuật Việt Ảnh sẽ tổ chức một buổi triển lãm nhiếp ảnh lúc 10 giờ sáng tại thiền viện Sùng Nghiêm, 11561 Magnolia Street, Garden Grove, CA 92841, (714) 323 3002. Xin mời quý độc giả đến xem hình triển lãm.


Nhiều người hiểu lầm rằng khi ta có máy ảnh và ống kính tốt thì tự nhiên hình sẽ ra đẹp. Nhưng thật ra không hẳn như thế. Máy ảnh và ống kính tốt chỉ là những công cụ giúp hình rõ nét và có độ sáng đúng mức mà thôi. Đứa trẻ nào sanh ra cũng tập nói và tập đi được, lời nói và bước đi có thể ví như kỹ thuật của nhiếp ảnh. Mặc dù phát âm và đi đứng vững chắc nhưng không hẳn cái duyên dáng có sẵn trong tiếng nói hay bước chân. Nhiếp ảnh cũng thế, nếu muốn có tính chất nghệ thuật trong ảnh thì ta phải học hỏi và luyện tập những yếu tố tạo ra nghệ thuật trong bức ảnh. Cũng như duyên dáng là cái hồn của cơ thể, nghệ thuật là tình cảm và tinh thần của bức ảnh. Bức ảnh không có nghệ thuật làm người xem dễ chán và sẽ không thu hút được sự chú ý của họ.

duyen-dang-trong-nhiep-anh.jpg

[Một bức ảnh đẹp vì cho thấy ánh sáng]

Cái nhìn

Yếu tố quan trọng nhứt tạo ra một bức ảnh nghệ thuật là cái nhìn của nhiếp ảnh gia. Khi nói đến nhìn, không phải mở mắt ra là nhìn được. Đôi khi con mắt người ta mở trân trân mà không thấy.

Sự chú ý rất quan trọng trong nhiếp ảnh nghệ thuật. Sự chú ý giúp nhiếp ảnh gia quan sát những diễn biến của đời sống chung quanh để có thể chụp ra một tấm hình tạo sự xúc động cho người thưởng thức. Hình nghệ thuật có thể ví như món ăn tinh thần đem lại sự tỉnh thức cho người xem. Ta có thể đi qua khung cảnh nào đó cả trăm lần đến độ nhàm chán. Nhưng khi nhiếp ảnh gia chụp cùng một khung cảnh ở một góc cạnh và ánh sáng nào đó, nó bất chợt trở nên khác lạ và có sự thu hút lạ thường. Bức ảnh nghệ thuật đó như một tiếng chuông xoáy vào tâm hồn người xem làm họ tỉnh thức và nhìn ra vẻ đẹp trong cuộc sống hàng ngày.

Muốn có cái nhìn duyên dáng của nghệ thuật, chúng ta phải cởi bỏ những ưu phiền khi cầm máy ảnh trên tay. Máy ảnh bây giờ trở nên một công cụ đưa ta sang một thế giới mầu nhiệm của ánh sáng. Một số người thích tụng kinh hay cầu nguyện để cho tâm hồn lắng dịu lại sau những bão táp của cuộc đời. Đối với nhiếp ảnh gia nghệ thuật thì những tấm hình nghệ thuật là những câu kinh kệ hay lời cầu nguyện tuyệt diệu đưa ta đến thế giới của chân, thiện và mỹ.

Ánh sáng và mầu sắc

Khi bạn biết nói chuyện với ánh sáng thì cả một chân trời mầu nhiệm sẽ mở ra trước mặt bạn. Ánh sáng rất quan trọng trong nhiếp ảnh. Ảnh ra tầm thường hay tuyệt mỹ là do bạn chọn lựa ánh sáng. Khi bạn tập dùng ngôn ngữ của ánh sáng trong nhiếp ảnh thì đến một lúc nào đó bạn cảm thấy rất gần gũi với tính linh thiêng của tạo hóa. Lúc đó bạn kết hợp được ánh sáng tỉnh thức trong tâm với ánh sáng vô tận bên ngoài. Khi làm được như vậy thì những suy tư buồn phiền trở thành vô nghĩa trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên.

Ánh sáng lúc nào cũng là một chủ đề làm cho con người quan tâm. Lúc tổ tiên ta còn ăn lông ở lỗ thì ánh sáng đồng nghĩa với sự sống. Có vô số nguy hiểm có thể xảy ra trong màn đêm. Có lẽ vì thế hoàng hôn lúc nào cũng gợi cho loài người một cảm giác buồn man mác. Có lẽ đâu đó còn phảng phất trong tâm tư nỗi lo âu mất mát khi đêm đến. Có phải vì thế mà khi ta bị căng thẳng trong cuộc sống thì tối lại bị mất ngủ vì màn đêm trong tiềm thức tượng trưng cho nguy hiểm chăng? Ta phải thức để canh chừng. Ngược lại khi mặt trời lên, mùa xuân đến, là những khoảng thời gian được coi là an toàn vì có nhiều ánh sáng, hoa quả và mùa màng dư thừa. Như bạn thấy đó, sự hiện diện của ánh sáng lúc nào cũng đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Sự hiện diện của ánh sáng còn đi đôi với màu sắc. Màu sắc cũng là dấu hiệu của sự sinh sản ở muôn loài, sinh vật lẫn thực vật. Vì thế ánh sáng và màu sắc có khả năng đem đến niềm vui và hy vọng trong tâm thức con người.

Khi người nghệ sĩ tập nói chuyện bằng ánh sáng và màu sắc thì niềm vui chung quanh họ sẽ vô tận. Chúng ta rất có phước sanh sống vào thời đại khoa học kỹ thuật trên đà phát triển. Lúc nào ánh sáng thiên nhiên hay nhân tạo cũng bao quanh ta. Vì thế mà những cơ hội chụp hình không bao giờ thiếu, từ sáng tới tối. Cái thiếu sót là do ta không biết nhìn ra và tận dụng những cơ hội này. Nếu tổ tiên ta mà được sống chỉ một giây phút trong xã hội ban đêm tràn đầy ánh sáng nhân tạo của thời nay thì chắc chắn là họ tin rằng họ đã đầu thai lên thiên đàng. Đa số chúng ta coi thường điều đó, vì thế mất cơ hội tận hưởng cái hạnh phúc do ánh sáng đưa đến. Ta còn cái phước nữa là ở thời đại này ta có máy ảnh digital, chụp ra coi liền lại được, không phải chờ chụp hết cuốn phim và đem ra tiệm rửa hình. Hình ra không như ý muốn, ta có thể điều chỉnh lại tức thời nên không bị bỏ lỡ cơ hội chụp. Với loại máy ảnh này, khả năng tiến bộ của ta sẽ vượt bực thế hệ trước trong nháy mắt.

Tâm hồn ta mở rộng thật nhiều khi tập nhìn ánh sáng. Ta tập thức dậy sớm để nhìn ánh mặt trời đầu tiên của một ngày mới. Ánh sáng đẹp nhất trong ngày là ánh sáng vài tiếng sau khi mặt trời mọc và trước khi mặt trời lặn. Những nhiếp ảnh gia kỳ cựu gọi thời điểm này là thời điểm vàng trong nhiếp ảnh. Đa số những ảnh phong cảnh thắng giải đều được chụp vào thời điểm này. Lúc này cảnh vật có màu sắc đậm đà rất đẹp.

Những phần tương phản sáng tối cũng rất mỹ thuật. Loại ánh sáng này làm giọt sương ban mai long lanh trên cọng cỏ non và làm những hàng dừa in bóng dài trên bãi biển vắng thơ mộng. Chỉ đợi vài tiếng sau, khi mặt trời lên cao thì sự mầu nhiệm của ánh sáng nghiêng dần dần biến mất. Đây là thời điểm khách du lịch cầm máy đi ra chụp hình. Những hình chụp vào trưa sẽ tạo ít ấn tượng nghệ thuật và màu sắc bị lợt lạt rất nhiều. Ánh sáng đầu tiên của ngày có thể ví như nụ cười e ấp của một thiếu nữ. Rồi khi mặt trời lên cao đến đỉnh trời thì nụ cười đó trở thành nụ cười chào hàng của cô tiếp viên, không còn duyên dáng dễ thương nữa.

Khi ta tập nhìn ánh sáng và màu sắc đẹp đẽ chung quanh thì dần dần những ý tưởng bi quan bị tan biến. Kiếp sống ta không còn hạn hẹp trong những ý muốn cá nhân không thành, tạo sự bực bội lẩn quẩn trong đầu ta. Ta có cái nhìn rộng hơn vì biết thưởng thức sự rộng lượng của thiên nhiên. Ánh sáng không ích kỷ, lúc nào cũng trao tặng người nghệ sĩ muôn vạn màu sắc tuyệt đẹp. Ánh sáng, khác với vật chất, lúc nào cũng vô tận. Có muôn người chụp mà không bao giờ hết. Càng nhiều người chụp thì ta càng có nhiều tác phẩm nghệ thuật. Ánh sáng không hạn hẹp như tiền bạc, danh lợi và sắc đẹp, người này được khiến cho người kia mất. Người vui trên chiến thắng thì có kẻ đau khổ trong thất bại. Cho nên khi ta làm quen với ánh sáng thì tâm hồn ta sẽ nếm được sự đẹp đẻ, không lo nghĩ của tâm tĩnh lặng.

Những bức ảnh

Khi bạn làm quen với ánh sáng rồi thì những tấm hình không quan trọng. Thú vui của nhiếp ảnh gia nghệ sĩ là không ngừng sáng tác với ánh sáng vô tận. Tấm hình có thể đẹp, được nhiều người trầm trồ khen ngợi và có thể được trúng giải. Nhưng tấm hình không phải là sở đắc của nhiếp ảnh gia. Nó chỉ là một cửa sổ giúp cho người xem quên tức thời những buồn lo để đi vào thế giới huyền diệu của mỹ thuật. Bức ảnh chỉ là viên sỏi để lại cho đời, nhân đó mà có người tìm được con đường dẫn đến thế giới chân thiện và mỹ. Nếu bỏ viên sỏi đó vào đôi giày để làm tâm đắc thì nó chỉ làm ta đau chân chớ không có ích lợi gì. Khi ta chọn một tác phẩm làm tâm đắc và bực bội khi tác phẩm đó bị chê thì ta vô tình mở cửa cho trần thế vào làm ô nhiễm cái thế giới nhẹ nhàng của ánh sáng rồi. Điều quan trọng nhứt là bạn tập được sự đẹp đẽ trong tâm hồn mình để tạo ra nhiều tác phẩm nghệ thuật khác nữa.


***********************

source

Vien Dong Daily News